Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, việc xây dựng củng cố tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) ở Đảng bộ Hà Tĩnh đã có nhiều chuyển biến tích cực. Căn cứ các quy định, hướng dẫn của Trung ương, tình hình thực tế của địa phương, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp uỷ trực thuộc kiện toàn, sắp xếp các tổ chức cơ sở đảng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình, tính chất nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị. Chỉ tính trong 3 năm (2008-2011) đã kiện toàn, sắp xếp 102 tổ chức và thành lập mới 42 tổ chức cơ sở đảng. Hầu hết các TCCSĐ sau kiện toàn, sắp xếp và thành lập mới đều phát huy được hiệu quả hoạt động. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu được nâng lên, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Thực hiện các văn bản chỉ đạo, lãnh đạo của Trung ương, của tỉnh về công tác xây dựng, củng cố TCCSĐ, thời gian qua, các cấp uỷ từ huyện đến cơ sở đã rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ; thực hiện thí điểm chủ trương bầu trực tiếp bí thư, phó bí thư, ban thường vụ cấp uỷ tại Đại hội. Chuẩn bị tốt công tác nhân sự, nhất là việc bố trí sắp xếp, thực hiện chính sách, chế độ đối với các đồng chí cấp uỷ viên, cán bộ không đủ tuổi tái cử theo nhiệm kỳ Đại hội Đảng và HĐND các cấp, đảm bảo đúng yêu cầu về số lượng và chất lượng đội ngũ. Sau đại hội nhiệm kỳ 2010-2015, các TCCSĐ đã ban hành quy chế làm việc mới, chương trình công tác toàn khoá, quy chế phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Xây dựng các tiêu chí phấn đấu thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Định kỳ sinh hoạt Đảng, đánh giá đều dựa vào các tiêu chí đó để xếp loại cấp uỷ, cán bộ, đảng viên.
Trong thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình, đã khắc phục dần tình trạng nể nang, né tránh, thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Việc đánh giá, phân loại đảng bộ, chi bộ, đảng viên hằng năm ngày càng thực chất hơn. Kết quả phân tích chất lượng TCCSĐ và đảng viên năm 2011 so với năm 2008, cho thấy: tỷ lệ đảng bộ, chi bộ cơ sở trong sạch, vững mạnh tăng 10,41%; yếu kém giảm 1,02%; tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tăng 1,6%, hoàn thành tốt nhiệm vụ tăng 1,04%, vi phạm tư cách giảm 0,31 %.
Công tác kiểm tra, giám sát của các cấp uỷ cơ sở được thực hiện tốt hơn. Hằng năm, đều xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra và thực hiện việc kiểm tra cấp uỷ viên, đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ đã được phân công. Từ đó phát hiện, xử lý nghiêm khắc những đảng viên có vi phạm; động viên, khen thưởng kịp thời những đảng viên, cấp uỷ viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Việc xử lý đảm bảo đúng quy định, đã có tác dụng giáo dục, răn đe, uốn nắn kịp thời và được dư luận đồng tình. Chất lượng đội ngũ cấp uỷ viên và một số chức danh cán bộ chủ chốt cơ sở từng bước được nâng lên.
Các cấp ủy cơ sở đã thực hiện tốt công tác phát triển đảng viên, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào có đạo và trong các doanh nghiệp tư nhân. Bình quân mỗi năm kết nạp được 2.895 đảng viên. Công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên có nhiều chuyển biến tích cực. Trong 3 năm (2008 - 2010), đã xoá được 4 xóm chưa có đảng viên và giảm 12 chi bộ sinh hoạt ghép. Hiện nay, toàn tỉnh chỉ còn 10 xóm chưa có đảng viên và 12 chi bộ sinh hoạt ghép.
Tuy đã đạt được những kết quả trên, nhưng trong quá trình xây dựng, củng cố TCCSĐ hiện nay vẫn còn bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc như: Công tác phát triển đảng viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng có đồng bào theo đạo và ở các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khó khăn. Tuổi đời bình quân của đảng viên vẫn còn cao. Số thanh niên trong độ tuổi lao động có tâm lý muốn thoát ly quê hương để lập thân, lập nghiệp nên đã thiếu nguồn kết nạp đảng viên mới, nhất là lực lượng trẻ. Đội ngũ cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn thiếu đồng bộ, chất lượng còn thấp. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng tuy có chuyển biến nhưng vẫn còn hẫng hụt, chắp vá. Nguồn cán bộ trẻ thiếu, mặc dầu gần đây tỉnh đã có chính sách thu hút sinh viên đại học, cao đẳng chính quy về xã, phường, thị trấn công tác, song kinh nghiệm còn ít nên khó khăn trong chỉ đạo thực tiễn ở cơ sở. Tỷ lệ cán bộ chuyên trách, công chức chuyên môn chưa qua đào tạo vẫn còn cao. Trong thực hiện nhiệm vụ thiếu năng động, sáng tạo, còn mang nặng tính bảo thủ, trì trệ. Một số cán bộ tuy có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình trong công tác nhưng năng lực hạn chế. Tình trạng giảm sút về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống; thái độ làm việc quan liêu, xa dân, chưa tận tuỵ, thiếu trách nhiệm trong công việc của một số cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục và xử lý kịp thời. Thực hiện quy định cán bộ chủ trì không giữ chức vụ quá 2 nhiệm kỳ; quy định số lượng biên chế cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn tương ứng với từng loại xã và chưa có quy định quỹ biên chế dự phòng... nên việc luân chuyển, điều động sắp xếp đội ngũ cán bộ cơ sở gặp nhiều khó khăn. Đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã không thuộc đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc nên khó khăn trong việc quy hoạch, bố trí, sắp xếp, tạo nguồn thay thế cho cấp trưởng. Chế độ phụ cấp cho bí thư, trưởng các thôn, xóm, tổ dân phố mặc dầu đã có điều chỉnh mới song vẫn ở mức thấp. Bên cạnh đó quy mô, thôn (xóm) sáp nhập lớn hơn trước nên trách nhiệm, công việc nặng nề. Vai trò của một số TCCSĐ ở cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị chưa được phát huy cao. Hoạt động của các đơn vị chủ yếu nặng về công tác chuyên môn, nhiều nơi chưa chú trọng công tác xây dựng Đảng. Công tác tư tưởng chưa gắn với công tác tổ chức, kiểm tra nên tác dụng chưa cao. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, tuy có cải tiến nhưng vẫn còn mang tính hình thức. Chế độ sinh hoạt chi bộ, đảng bộ chưa duy trì theo đúng Điều lệ Đảng quy định, chất lượng sinh hoạt chưa cao. Vai trò, sức mạnh của chi bộ chưa rõ nét.
Trong tình hình hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ là yêu cầu hết sức quan trọng. Vì vậy, cần tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về những quan điểm, chủ trương, biện pháp, giải pháp chủ yếu để tiếp tục thực hiện Nghị quyết 22- NQ/TW, Chỉ thị 10-CT/TW về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu củaTCCSĐ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; gắn với triển khai thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, kết luận... của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ. Các cấp uỷ đảng tiếp tục quan tâm chỉ đạo, đặc biệt hướng mạnh và dồn sức, tập trung xây dựng TCCSĐ. Trong đó chú trọng nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là năng lực cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời phát huy tính năng động sáng tạo của cấp uỷ các cấp, người đứng đầu cấp uỷ; nhận thức đúng và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình TCCSĐ theo các quy định của Ban Bí thư.
Thứ hai, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị. Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức của các TCCSĐ cho đồng bộ, thống nhất với các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở. Quan tâm xây dựng mô hình tổ chức phù hợp với những TCCSĐ có tính đặc thù, tạo sự thống nhất chung gắn với thực hiện chủ trương cải cách hành chính trong Đảng. Củng cố các TCCSĐ đảm bảo vững mạnh trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Có biện pháp cụ thể để củng cố các TCCSĐ yếu kém, đặc biệt là những địa phương nhiều năm liền không hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Cần tập trung kiện toàn các chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở xã, phường, thị trấn sau khi đã hoàn thành việc sáp nhập các thôn (xóm). Đẩy mạnh công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở. Nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, năng lực tổ chức quản lý cho cán bộ, đảng viên. Các địa phương cần nghiên cứu để có chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở, nâng cao mức thu nhập hiện nay cho đội ngũ bán chuyên trách cấp xã và thôn (xóm).
Thứ ba, tăng cường công tác phát triển đảng viên, giao chỉ tiêu cụ thể và có kế hoạch tạo nguồn vững chắc. Phân công cấp ủy chỉ đạo, cử cán bộ phụ trách theo dõi, hướng dẫn, giúp đỡ tổ đảng và các chi bộ trực thuộc. Với phương châm coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, tránh định kiến hẹp hòi, đảm bảo tiêu chuẩn nhưng không cứng nhắc. Tùy tình hình cụ thể của từng trường hợp để có sự vận dụng linh hoạt. Coi công tác phát triển đảng viên là một tiêu chí để đánh giá đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh. Các TCCSĐ cần kịp thời chấn chỉnh và làm tốt công tác quản lý đảng viên. Thực hiện quy định phân công nhiệm vụ cho đảng viên, theo dõi giúp đỡ để đảng viên thực hiện tốt nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và làm cơ sở để đánh giá đảng viên hàng năm. Chú trọng công tác quản lý hồ sơ đảng viên theo chế độ bảo mật cũng là góp phần để làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay.
Thứ tư, xây dựng các tiêu chí, đổi mới nội dung để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ gắn với các nội dung thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và nghiêm túc thực hiện nền nếp chế độ sinh hoạt theo Điều lệ Đảng đã quy định. Thực hiện tốt Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW, ngày 02/3/2012 của Ban Tổ chức Trung ương về hướng dẫn nội dung sinh hoạt chi bộ, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, thể hiện tính chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, tập huấn cho đội ngũ cấp uỷ, bí thư chi bộ và đội ngũ chuyên trách và kiêm nhiệm công tác Đảng trong các loại hình TCCSĐ đảng nhằm bổ sung kiến thức, nhận thức nhiệm vụ đối với công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở hiện nay. Gắn với thực hiện Quy chế giám sát trong Đảng của Bộ Chính trị, các cấp uỷ cấp trên cơ sở tăng cường kiểm tra cấp uỷ cấp dưới và đảng viên để đôn đốc, nhắc nhở, uốn nắn kịp thời nhiệm vụ, sinh hoạt Đảng. Thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt chi bộ và báo công với Bác hàng tháng, bổ cứu nhiệm vụ cho đảng viên và tập thể lãnh đạo trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và rèn luyện đạo đức lối sống theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) của Đảng.
Bùi Thị Nga
Phó Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh uỷ
Tin mới cập nhật
- Ban Thường vụ Tỉnh ủy kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần nghị quyết Trung ương 4 (khóa Xi) “một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” ( 05/10)
- Từng bước hiện đại hóa công nghệ thông tin trong các cơ quan Đảng ở Hà Tĩnh ( 05/10)
- Đẩy mạnh phong trào thi đua “dân vận khéo” là động lực để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị ( 04/10)
- Công tác kiểm tra, giám sát góp phần quan trọng để nâng cao sức chiến đấu của đảng ( 04/10)
- Nguyễn Đình Tứ tỏa sáng một tài năng, một nhân cách ( 04/10)